Kỹ thuật chế biến vỏ cà phê thành phân hữu cơ sinh học
Phuoc An coffee xin giới thiệu đến bà con “Quy trình hoàn thiện chế biến vỏ cà phê thành phân hữu cơ sinh học”, tài liệu được cung cấp bởi Trung tâm khuyến nông tỉnh Đăk Lăk
Giới thiệu
Tây Nguyên là vùng đất rộng lớn giàu tiềm năng phát triển nông nghiệp với nhiều loại cây trồng khác nhau, đất đai ở đây được đánh giá là thiên đường để trồng cây công nghiệp, đặc biệt là cây cà phê, cao su và các cây trồng khác.
Nhưng do các yếu tố tự nhiên, địa hình dốc bị chia cắt mạnh và sự khai thác đất không hợp lý, không đúng kỹ thuật của con người nên đã làm suy thoái sức sản xuất của đất, mà trước hết là làm sụt giảm hàm lượng chất hữu cơ trong đất, sau đó là độ phì, cấu trúc đất cũng bị sụt giảm theo.
Thực tế sản xuất đã khẳng định vai trò thiết yếu của phân hữu cơ trong việc duy trì độ phì nhiêu của đất, ổn định năng suất cây trồng, góp phần vào sản xuất nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, hiện nay nguồn phân hữu cơ từ chất thải của gia súc ngày càng khan hiếm không đủ để đáp ứng cho canh tác nông nghiệp của Tây Nguyên, trong khi đó, vỏ quả cà phê (VCP) một nguồn hữu cơ quí, có sẵn lại rất rẻ, có thể sản xuất thành phân hữu cơ để thay thế một phần hay toàn bộ phân chuồng, chưa được chú trọng sử dụng trong sản xuất, thậm chí nhiều hộ gia đình còn vứt bỏ cả nguồn hữu cơ quí giá này.
Nhìn thấy được tiềm năng của vỏ quả cà phê có thể góp phần vào sản xuất nông nghiệp bền vững của Đăk Lăk, nên từ đầu năm 2005, Dự án Phát triển Nông thôn Đăk Lăk đã hợp tác với Trung tâm Khuyến nông Đăk Lăk, Trạm Khuyến nông của 2 huyện Lăk và Ea H’leo tiến hành thử nghiệm mô hình chế biến phân hữu cơ sinh học từ vỏ quả cà phê.
Cuốn sổ tay này được biên soạn là tổng hợp kết quả và kinh nghiệm thu được từ những mô hình thử nghiệm trong những năm qua để cung cấp tài liệu hữu ích cho nông dân và cán bộ khuyến nông trong việc xử lý vỏ quả cà phê thành phân hữu cơ sinh học tại nông hộ.
Lợi ích của việc sử dụng vỏ quả cà phê để sản xuất phân hữu cơ sinh học
Với diện tích cà phê hiện tại của Đăk Lăk nói riêng và Tây nguyên nói chung thì hàng năm thải ra hàng trăm ngàn tấn vỏ quả cà phê từ quá trình xay xát, nếu lượng vỏ này được chế biến thành phân hữu cơ sinh học thì mang lại lợi ích rất lớn cho mỗi gia đình và xã hội.
Chỉ cần bỏ ra công lao động, vỏ quả cà phê và ít tiền để mua men sinh học, phân chuồng (nếu gia đình không có), phân urê, phân lân, vôi, và đường ăn thì có thể sản xuất ra hữu cơ sinh học có chất lượng tốt nhưng giá thành chỉ bằng 30% so với giá phân cùng loại bán trên thị trường.
Do đó, có thể tiết kiệm được một lượng kinh phí đáng kể để đầu tư cho công việc khác. Mặt khác, bón phân hữu cơ sinh học này cho cây trồng, góp phần ổn định năng suất, giảm được lượng phân khoáng là hướng đi đầy tiềm năng để tiết kiệm chi phí sản xuất.
Sử dụng phân hữu cơ sinh học chế biến từ vỏ quả cà phê bón cho lúa, ngô, cà phê, hồ tiêu, … có những ích lợi về môi trường sau đây:
- Không gây ô nhiểm môi trường sinh thái, không ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, cây trồng, vật nuôi
- Cải thiện kết cấu, độ xốp và độ phì nhiêu của môi trường đất
- Cân bằng hệ vi sinh vật trong môi trường đất
- Có tác dụng phân huỷ, chuyển hoá các chất hữu cơ khác trong đất để cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng.
- Có tác dụng nâng cao được hệ số sử dụng phân khoáng bón cho cây trồng, dẫn đến giảm thiểu lượng phân hoá học rữa trôi xuống tầng nước ngầm hay thăng hoa vào môi trường không khí gây ô nhiểm môi trường.
Hướng dẫn chế biến
Nguyên vật liệu
- Nguyên liệu chính để chế biến phân sinh học là khoảng 1.000 kg vỏ quả cà phê được lấy từ quá trình xay xát tạo ra 3.000 kg cà phê nhân.
- Phân chuồng: 200 kg
- Phân lân nung chảy: 50 kg
- Phân urê: 10 kg
- Vôi bột: 15 kg
- Đường cát: 2 kg
- Men sinh học: 2 kg
Ghi chú:
Men sinh học nhiều loại khác nhau:
- – Loại men sinh học có thành phần chính là vi sinh vật phân huỷ xen-lu-lô, protein, chất khử mùi hôi thối
- – Loại men sinh học có thành phần chính là nấm Trichoderma, xạ khuẩn Streptomyces
Bà con có thể theo dõi bài viết về men sinh học và tìm mua theo bài viết sau đây:
- Quy trình xử lý vỏ cà phê
Lao động
Cần 5 công lao động để chia 2 đợt để hoàn thành công việc chế biến này:
- Đợt 1: cần 3 công để hoàn thành xong đống ủ
- Đợt 2: sau đợt 1 là 40 ngày cần 2 công lao động để đảo lại đống ủ
Dụng cụ
Chuẩn bị các dụng cụ sau đây đủ để thực hiện công việc này:
- Cuốc: 02 cái
- Xẻng: 02 cái
- Cào xới: 02 cái
- Thùng chứa 500 lít nước: 01 cái
- Xoa tưới nước; 01 cái
- Bơm nước: 01 cái
- Ống nước: đủ dài để dẫn nước từ nguồn nước đến nơi chế biến
- Bao, bạt cũ: đủ để che toàn bộ đống ủ
Hoạt hoá men sinh học
Từ 4 đến 5 giờ trước khi tiến hành chế biến, bơm khoảng 500 lít nước sạch vào thùng chứa và lấy từ nguyên liệu đã chuẩn bị:
- Toàn bộ men sinh học: 02 kg
- Đường cát: 02 kg
- Phân urê: 200 gam hay 0,2 kg
Sau đó, cho toàn bộ men sinh học, đường, và phân urê vào thùng chứa nước nói trên và khuấy đều cho tan hết. Công việc này được lặp lại sau 1 giờ và tiến hành khuấy ít nhất là 4 lần để men sinh học có thể hoạt hoá hoàn toàn làm phân giải nhanh vỏ quả cà phê khi ủ.
Thực hiện chế biến
Phối trộn nguyên vật liệu khô
- Vỏ quả cà phê được trải đều trên mặt đất dày khoảng 40 cm
- P hân chuồng vãi đều trên bề mặt vỏ quả cà phê
- Lượng phân urê (9,8kg) còn lại được vãi đều trên mặt đống nguyên liệu vỏ cà phê và phân chuồng
- Tiếp theo vãi phân lân nung chảy và vôi bột Sau khi đã cho tất cả nguyên liệu vào với nhau thì tiến hành đảo đống nguyên liệu này để cho tất cả các thành phần được trộn thật đều với nhau.
Nguyên liệu khô đã được trộn đều với nhau thì tiến hành vừa tưới nước đống nguyên liệu vừa trộn để cho nước có thể làm ướt hoàn toàn đống ủ. Nếu chỉ tưới nước mà không tiến hành trộn cùng lúc thì chỉ có lớp mặt đống nguyên liệu bị ướt, các lớp dưới không ướt đều sẽ không phân giải khi ủ. Lượng nước tưới ướt khoảng 70 – 80% thành phần đống nguyên liệu là đủ, nếu tưới nhiều nước quá phân urê, phân lân và vôi có thể bị rữa trôi nhiều.
Khi đống nguyên liệu được làm ướt hoàn toàn thì để yên khoảng 15 đến 20 phút cho nước, phân thấm đều vào tất cả thành phần của nguyên liệu. Sau đó, tưới nhẹ đống nguyên liệu này lần nữa để bảo đảm tất cả thành phần của đống nguyên liệu đã được thấm ướt hoàn toàn, và tiếp theo tiến hành chất đống ủ và phối trộn men sinh học đã được hoạt hoá cho đống nguyên liệu. Công việc được thực hiện như sau:
– Dọn sạch và làm bằng vị trí để chất đống ủ
– Trải lên mặt đất một lớp rơm rạ, hay vỏ quả cà phê đã tưới ướt dày khoảng 10 cm
– Chất nguyên liệu đã trộn ướt thành lớp dày 20 cm đến 25 cm, rộng từ 2 mét đến 2,5 mét, và dài tùy ý.
– Khuấy đều dung dịch men đã hoạt hoá và dùng xoa múc tưới đều trên mặt lớp nguyên liệu.
– Công việc chất lớp nguyên liệu ướt và tưới men đã hoạt hoá được tiếp hành liên tục cho đến khi hoàn thành.
– Đống ủ khi hoàn thành phải có chiều cao tối thiểu là 1,2 m, và rộng từ 2 mét đến 2,5 mét để bảo đảm đống ủ có thể giữ nhiệt cho quá trình phân giải.
– Khi đống ủ đã được chất hoàn toàn thì dùng rơm rạ, hay vỏ quả cà phê ướt phủ lên bề mặt đống một lớp mỏng từ 10 cm đến 20 cm, tiếp theo tưới nhẹ nước lên toàn bộ đống ủ, và cuối cùng dùng bao, bạt cũ hay tấm nilon che phủ kín toàn bộ đống ủ để giữ ẩm và nhiệt độ cho đống ủ.
Chú ý: Tấm bạt, nilon phải đè chèn bằng vật nặng để khỏi bị gió cuốn đi.
Kiểm tra sau khi ủ
Khoảng 15 ngày sau khi ủ, thì tiến hành kiểm tra đống ủ, dùng cuốc moi một hố sâu vào tâm đống ủ và nhận thấy có rất nhiều nấm men vi sinh trắng bám trên bề mặt nguyên liệu và nhiệt độ của đống ủ có thể lên đến 80oC có tác dụng phân huỷ nguyên liệu và tiêu diệt mầm bệnh. Đồng thời, đống ủ cũng bị thiếu ẩm (bị khô), nên cần phải tưới thêm nước sao cho nước có thể làm ướt đều đống ủ. Sau đó, gom chất đống và che đậy lại.
Đảo trộn, chất đổng ủ lần 2 Sau khi kiểm tra từ 25 đến 30 ngày, hay 40 đến 45 ngày ủ, thì dở toàn bộ bao, bạt, tấm nilon che phủ và tiến hành đảo trộn thật đều toàn bộ đống ủ, vừa trộn vừa tưới nước đủ để thấm đều hoàn toàn nguyên liệu. Khi đã trộn xong nên tiến hành gom, chất và giẫm nén nguyên liệu thành đống có chiều cao tối thiểu là 1 mét và dùng bao, bạt, tấm nilon đậy kín lại như lần đầu.
Kiểm tra lần cuối
Khi tổng số ngày ủ được 110 đến 120 ngày, hay sau khi ủ lại được 70 đến 80 ngày, kiểm tra đống ủ thấy nguyên liệu đã mềm và nát thì có thể sử dụng để bón cho cây trồng được.
Chú ý: Luôn kiểm tra độ ẩm của đống ủ, nếu thấy khô, phải tưới thêm nước. Đôi khi ở lớp ngoài và bề mặt trên của đống ủ rất ẩm, nhưng bên trong thì rất khô, nên phải tưới nước để đống ủ ẩm hơn cho vi sinh vật hoạt động tốt, nguyên liệu mau hoai mục.
Khối lượng phân hữu cơ sinh học được tạo thành
Với thành phần, khối lượng nguyên liệu được sử dụng thì sau khi chế biến, phân giải thu được khoảng 1.300 – 1.400 kg phân hữu cơ sinh học với ẩm độ từ 20 đến 25% trọng lượng.
Thông tin sản phẩm
Phân bón Hữu cơ vi sinh – TN Divital – Germany
THÀNH PHẦN: 100% nguyên liệu hữu cơ thiên nhiên, không chất độc hại.
Nitơ (N) tối thiểu: 1% ; Phốt pho (P2O5) tối thiểu: 3% ; Kali (K2O) tối thiểu: 1%, Hữu cơ (OC) tối thiểu: 23% ;
Axit Humic tối thiểu: 1,5% ; Vi sinh vật phân giải Xenlulô – Aspergillus Fumigatus: 1 x 106 CFU/g
TÁC DỤNG: Divital – Germany Dinh dưỡng lý tưởng của cây – Cho nông sản chất lượng vượt trội
– Divital – Germany là phân bón hữu cơ vi sinh giàu năng lượng được xử lý bằng công nghệ sinh học tiên tiến của Cộng Hoà LB Đức, sản phẩm của Nhà máy liên doanh phân bón Đức – Việt, phục vụ ngành Nông nghiệp hữu cơ hiện đại bền vững.
– Divital – Germany giúp cho cây trồng thỏa mãn về nhu cầu dinh dưỡng nhờ khả năng của vi sinh vật khoáng hóa vật chất vùng rễ. Bằng nguồn năng lượng nội tại với tác động của điều kiện tự nhiên, dinh dưỡng trong đất, trong phân được giải phóng và cung cấp đều đặn cho cây theo nhu cầu.
– Divital – Germany kiến tạo môi trường thích hợp giúp bộ rễ cây trồng thực hiện hiệu quả quá trình hô hấp và dinh dưỡng khoáng.
– Divital – Germany ngăn chặn quá trình bay hơi, rửa trôi và cố định dinh dưỡng trong đất, hạn chế gây ô nhiễm và tác động xấu tới môi trường.
– Divital – Germany cải tạo, duy trì và nâng cao sức sản xuất của đất. Nhờ vậy, năng suất và chất lượng nông sản luôn được tăng trưởng qua từng năm, từng vụ.
– Divital – Germany vượt qua giới hạn phân bón, Divital – Germany còn là giải pháp đáp ứng nền Nông nghiệp hữu cơ và thích ứng điều kiện biến đổi khí hậu.
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG:
Divital – Germany sử dụng tốt cho mọi đối tượng cây trồng, có thể sử dụng bón lót và bón thúc. Đặc biệt rất phù hợp với trồng trọt công nghệ cao (trong nhà lưới, nhà kính và giá thể ươm giống…).
+ Cây hoa và rau màu các loại:
Lượng dùng từ 0,2 – 0,4 kg/m2, sử dụng 1 – 2 lần/vụ (trước khi gieo trồng hoặc sau mỗi lần thu hái).
+ Cây lâu năm (Hồ tiêu, Cà phê, cây ăn quả, cây có múi…):
Lượng dùng từ 0,5 – 2,0 kg/ gốc, sử dụng 2 – 3 lần/ năm (Đầu, giữa và cuối mùa mưa hoặc bón trong giai đoạn phục hồi cây, phân hóa hoa, nuôi trái).
+ Cây cảnh (bon sai):
Lượng dùng tuỳ theo từng cây, bón từ 0,2 – 1,0 kg/ cây, sử dụng 2 lần/năm (Tháng 2 – T3 và T8 – T9), hoặc bón chăm sóc định kỳ.
Cách bón: Nên bón kết hợp làm cỏ, xới sáo, tưới nước và vùi lấp phân, đất trồng mới nên đảo đều phân với đất trước khi trồng.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, thoáng mát.
Cảnh báo an toàn: Không nguy hiểm khi tiếp xúc trực tiếp, tránh xa tầm tay trẻ em.
HỒ SƠ PHÁP LÝ:
– Số TCCS 15:2016/TN-TH
– Hợp quy: IQC
Liên hệ mua sản phẩm:
Khu vực phía Nam Tp.HCM: 0903.865035 (33T2 Dương Bá Trạc, P.1, Q.8)
Khu vực phía Bắc Tp.HCM: 0983129370 (105/16/18 Nguyễn Tư Giản, P.12, Q. Gò Vấp)
Phí giao hàng tận nơi 20.000đ (khu vực nội thành Tp.HCM)
ngoại thành Tp.HCM: 35-40.000đ
Thông tin sản phẩm
|
Cây trồng
|
Liều lượng
|
Cách bón
|
| Bầu ươm cây con | 1 – 2 kg/1m3giá thể ươm cây | -Trộn đều với giá thể ươm trước khi vô bầu |
|
Cây rau màu
(Cà chua, dưa leo, dưa hấu, khổ qua ớt, rau cải các lọai…)
|
3 – 6 kg/1000 m2
|
-Trộn với phân hữu cơ để bón đất trước khi trồng.
-Bón thúc bổ sung 1 – 2 lần/1 vụ
|
|
Cây công nghiệp ( cà phê, tiêu, điều)
Cây ăn trái (Sầu riêng, cam, quýt, bưởi, xoài…)
|
4 – 8 kg/1000 m2
|
-Trộn với phân hữu cơ bón 1 – 2 lần/ năm
– Bón trực tiếp vào xung quanh gốc cây.
|
– Sản phẩm phân hữu cơ thu được có thể trộn với phân NPK, urê, super lân, kali và các lọai tro trấu.
Liên hệ kinh doanh: 0903865035 – dong.nguyen@dpcc.biz


